Chủ Nhật, 22 tháng 7, 2007

BỆNH Ở TÔM & CÁCH PHÒNG BỆNH CHO TÔM

BỆNH Ở TÔM & CÁCH PHÒNG BỆNH CHO TÔM


A - CÁC BỆNH THƯỜNG GẶP Ở TÔM

Sản xuất tôm trên thế giới những năm gần đây tăng nhanh là nhờ phương pháp nuôi tôm tốt. Sản lượng tôm nuôi năm 1991 lên tới 700.000 tấn, kể từ đó trở đi, sản lượng hàng năm không ngừng gia tăng. Song song tăng về số lượng tôm thì bệnh tôm ngày phát triển nhiều và xuất hiện nhiều bệnh lạ, chưa có giải pháp điều trị.

Gần 30 bệnh và hội chứng của tôm nuôi với 2 nguyên nhân nhiễm trùng và không nhiễm trùng đã được nhiều tài liệu gần đây nhắc đến, nhưng sự hiểu biết về chúng còn rất ít. Một số tác nhân gây bệnh quan trọng nhất cho tôm nuôi phải kể đến trước tiên là virus, vi khuẩn nấm và nguyên sinh động vật.


Dưới đây sẽ trình bày khái quát một số bệnh tôm, phương hướng hiện tại và tương lai trong chuẩn đoán, phòng và đìêu trị các bệnh tôm đó.

1. Bênh do các virus:

· Hiện nay người ta đã phân lập được tới 12 loại virus khác nhau gây bệnh cho tôm nuôi, đó là IHHNV, HPV, BMN, MRV, BP, REO, YHV, LPV, LOVV, RPS, WSBV, TSV. Các loại virus này được phân ra 2 loại: Loại virus DNA và loại RNA. Sáu bệnh virus nặng gây chết đáng kể cho tôm nuôi cũng được báo cáo: Sự nhiễm bệnh lúc còn ấu trùng và non yếu là phổ biến nhất. Một số virus gây bênh có tính đặc hiệu với 1 loài hay chỉ một vài loại tôm, trong khi đó những virus khác biểu hiện khả năng nhiễm bệnh ở tất cả các loại tôm.

· Hiện nay chưa có phương pháp nào điều trị bệnh virus ở tôm nuôi thành công.

· Chi tiết từng virus sinh bệnh, cách chuẩn đoán, phòng ngừa và điều trị sẽ được trình bày trong chương VII,VIII.

2. Bệnh rickettsia:

Rick là vi sinh vật hình gậy. Nó gây bệnh cho các loại tôm. Rick đã được tìm thấy trong các loài tôm P.MARRGINATUS, Penaeus monodon, P. STYLIROSTRIS, và P. vannamei.

3. Vi khuẩn:

· Vi khuẩn gây bệnh cho tôm có thể kể ra các loại sau: Vibriasis, Luminaus, Epicommensal Filametous Bacteria, Exoskeletal lesions bacteria, Indured hepatopancreatilis bacteria.

· Vi khuẩn hình roi thuộc nhóm gram âm, thuộc dòng Vibrio gây ra hàng loạt bệnh cho tôm, chết tới 100%.

· Một bệnh gây ra bởi những vi khuẩn đó được gọi là Vibrio (một loại vi khuẩn gây nhiễm trùng máu). Vi khuẩn này gây nhiễm bệnh mãn tính, bán cấp hoặc cấp. Nhiều chất hoá học và kháng thể được dùng để điều trị bệnh vibriosis tôm gồm EDTA, FURANACE, FURAZOLIDON (NF_180), Errythomycin, Terramycin và Chloramphenicol.

· Vi khuẩn làm hư hại chitin có thể làm vết thương lan rộng và bài xuất những enzyme ngoại bào. Vi khuẩn sợi (thường là Leucothrix mucur) có thể tấn công tôm làm ảnh hưởng tới hô hấp.

4. Nấm:

· Những bệnh thường gặp ở tôm đó là bệnh do Larval mycosis, Bệnh Fusarium vv.. Trong nhiều trường hợp, các nấm có thể gây ra chết hàng loạt, đặc biệt chỗ ương trứng. ở đấy bệnh mycosis ấu trùng gây chết hoàn toàn. Mycosis ấu trùng thường được gây ra bởi Lagenidium callinectes, Sirolpidium sp hoặc Maliphthoros sp. Và chết tới 100% trong vòng 48 giờ sau khi nhiễm. Treflan, Formanganate kali, furanace được dùng để điều trị sự nhiễm nấm trong khi ương.

· Một bệnh nấm khác gọi là bệnh FUSARIUM solani. Tất cả các tôm có thể chống lại bệnh này nhưng có loại tôm P. JAPONICUUS đặc biệt nhạy cảm và có thể bị chết nhiều khi bị nhiễm nó.

5. Nguyên sinh động vật:

· Protozoa gồm các dòng Epitylis, Vorticella, Zoothamnium, Microsporidians, Gregarines.

· Tôm rát dễ bị nhiễm bởi Protoza mà nó luôn có mặt trong môi trường ao nuôi... Nhiều dòng Protozoa gây bệnh có thể nêu ra như Zoothamnium, Epitylis, Vorticella, Acineta và Lagenophrys. Nuôi dầy và ấu trùng sắp sang giai đoạn trưởng thành có thể bị. Chúng được điêu trị bởi Chloroqince diphosphate, Saponin hay formalin 25 ppm.

· Microsporida - là một loại protozoa ký sinh bên trong làm tôm trắng như sữa. Bệnh xảy ra khi điều kiện nuôi tôm có lẫn cá. Gregarine là bệnh đường tiêu hoá của tôm. Khi nhiễm bệnh này tôm kém ăn, chậm lớn và có khi chết.

6. Những bệnh dinh dưỡng, độc chất và môi trường:

Một số bệnh thuộc loại này là bệnh thiếu vitamin C đã được biết - đó là bệnh chết đen, bệnh mang tôm đen, bệnh đỏ tôm, bệnh xanh tôm, bệnh huỷ hoại cơ vv...

Kết quả của sự biểu hiện mức độc chất như là các kim loại nặng, ozone, hoặc amoniăc và bệnh bóng được ra do nước quá bão hoà với các khí hơi của không khí. Tất cả các loại tôm nói chung rất nhậy cảm với các bệnh này.

7. Những bệnh chưa rõ nguyên nhân:

Ngoài những bệnh trên, còn có những bệnh khác do điều kiện nuôi tôm sinh ra mà người ta chưa phát hiện được nguyên nhân cụ thể. Chẳng hạn như bệnh tinh dịch đen của con đực P. vannamei, P. stylirostris và P. setiferus và hội chứng ruột, thần kinh của tôm P. japonicus cũng như nhiều bệnh khác như bệnh đầu vàng, hội chứng tôm chết 1 tháng, hội chứng có nhiều lỗ xốp.

B - PHƯƠNG PHÁP CHUẨN ĐOÁN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ

I. Ðiều kiện phát sinh bệnh truyền nhiễm:

Bệnh tôm thường xảy ra do tương tác giữa vật chủ có tính mẫn cảm trong điều kiện môi trường xấu cùng với vi sinh vật gây bệnh. Vì thế để kiểm soát có hiệu quả dịch bệnh, cần phải hiểu rõ tác động qua lại của mối quan hệ này. Khi hội tụ cả 3 yếu tố tôm sẽ phát bệnh. Cũng có trường hợp vật chủ mẫn cảm gặp mầm bệnh độc lực cao, không cần yếu tố môi trường bất lợi cũng phát sinh dịch bệnh như bệnh đốm trắng. Tôm có thể bị stress bởi điều kiện môi trường xấu, các mầm bệnh sẵn có ở đáy ao tấn công gây bệnh (như vi khuẩn Vibrio). Cũng có trường hợp tôm mang sẵn mầm bệnh MBV (Monodon Baculovirus) trong cơ thể hoặc mầm bệnh đốm trắng (WSBV) tồn tại săn ở ký chủ trung gian như Cua, Ruốc...

II. Chuẩn đoán bệnh:

Trong lĩnh vực nghiên cứu về bệnh thuỷ sản, trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng sự hiểu biết về tác nhân gây bệnh, tính chất lan truyền còn ít ỏi. Thậm chí ở các nước có nghề nuôi trồng thuỷ sản đạt trình độ hợp lý và hiện đại thì bệnh ký sinh trùng, vi khuẩn đưược nghiên cứu cặn kẽ hơn cả

Bệnh xảy ra không rõ nguyên nhân có thể được phát hiện thường xuyên, người nuôi cho rằng bệnh do virus. Việc chuẩn đoán bệnh do virus phức tạp, đòi hỏi mức độ kỹ thuật cao, trang thiết bị chuyên dụng và đắt tiền mà tại điểm sản xuất không có khả năng tự thực hiện.

Phương pháp kính hiển vi được áp dụng để phát hiện các tác nhân gây bệnh do vi khuẩn, nấm, ký sinh trùng và những dấu hiệu đặc trưng do virus (Chẳng hạn như thể vùi) trong lát cắt mô nhuộm màu. Ngoài vấn đề thời gian kỹ thuật đó thực tế không đủ nhạy để phát hiện giai đoạn sớm, cũng như dấu hiệu bệnh lý tế bào của một số bệnh giống nhau, dễ nhầm lẫn.

Kính hiển vi điện tử được áp dụng để chuẩn đoán song rất đắt tiền.

Hiện nay những phương pháp chẩn đoán nhanh nhạy, chính xác trong chẩn đoán bệnh đang được áp dụng nhiều trong y học và thú y bây giờ cũng được phát hiện để chẩn đoán bệnh thuỷ sản. Phương pháp nuôi cấy mô, phương pháp tạo kháng thể đơn dòng, đa dòng, chẩn đoán miễn dịch như DOTBLOT, ELISA... Kỹ thuật thử nghiệm chẩn đoán gen đặc biệt là kỹ thuật PCR (Polimerase Chain Reaction) đang được thịnh hành.

ở nước ta, phòng thí nghiệm của các viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản từ vài năm gần đây đã áp dụng phương pháp mô học để phát hiện các ẩn đặc trưng của MBV.

Hiện nay viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản II Thành phố Hồ Chí Minh đã ứng dụng kỹ thuật PCR để chẩn đoán bệnh đốm trắng.

Qua 2 phương pháp chẩn đoán trên cho phép khẳng định sự hiển diện của 2 loại virus MBV và WSBV gây bệnh đốm trắng ở tôm Việt Nam. Còn các virus khác gây bệnh cho tôm thì vẫn trong tình trạng nghi vấn (?). Vì vậy việc đầu tưư trang bị cho kỹ thuật chẩn đoán miễn dịch nhanh, chính xác là hết sức cần thiết. Ðiều đó giúp điều tra dịch tễ học và biện pháp phòng ngừa bệnh.

Ngoài ra, việc theo dõi thường xuyên và phát hiện kịp thời có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phòng trị bệnh cho tôm, chỉ xác định sớm và đúng nguyên nhân gây bệnh thì mới có hướng giải quyết đúng và giảm được thiệt hại. Do vậy:

· Người nuôi tôm thường xuyên kiểm tra mức độ ăn của tôm thông qua theo dõi các thức ăn, thăm ao vào buổi tối và sáng sớm.

· Kiểm tra lại sự ổn định của môi trường qua các thông số thuỷ, lý, hoá.

· Thường xuyên theo dõi cẩn thận hoạt động sống của tôm nhằm phát hiện kịp thời những dấu hiệu bất thường của tôm. Một vài dấu hiệu thường gặp khi bệnh xuất hiện:

+ Tôm bơi lội không bình thường ( Tôm nổi trên mặt nước và ven bờ ao).

+ Mất phụ bộ và vỏ bị tổn thương.

+ Màu sắc thay đổi (sẫm màu hoặc màu đỏ)

+ Mềm vỏ kéo dài.

+ Ðóng rong rơ bẩn

+ Xuất hiện tôm chết ven ao

+ Màu sắc mang thay đổi (đen, vàng...)

· Diễn biến thời gian tôm chết cũng giúp ta định hướng xác định nguyên nhân gây bệnh.

+ Tỷ lệ tôm chết tăng dần trong vài ngày hoặc vài tuần : do vi sinh vật.

+ Tôm chết đột ngột trong 1,2 ngày: do môi trường (oxy hoà tan thấp, pH, nhiệt độ và độ độc của MH3, H2S,? trong môi trường ao nuôi).

C- NGUYÊN TẮC CHUNG PHÒNG NGỪA BỆNH TÔM:

I- Phòng bệnh:

Khi giải quyết vấn đề trị liệu cho tôm là phải chấp nhận sự thiệt hại về kinh tế, tôm chết nhiều hay ít, bệnh nặng hay nhẹ cũng ảnh hưởng đến sự tăng trọng một thời gian. Do đó phòng bệnh hơn là chữa bệnh.

Phòng bệnh là biện pháp tích cực có ý nghĩa quyết định thành công trong nghề nuôi trồng thuỷ sản. Phòng bệnh tức là sử dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp nhằm ngăn chặn mầm bệnh từ bên ngoài vào ao nuôi, duy trì các yếu tố môi trường thích hợp cũng nhưư chất lưượng thức ăn tốt, khẩu phần ăn hợp lý để khống chế dịch bệnh xảy ra trong khi nuôi. Sự phòng ngừa gồm có các biện pháp sau:

1. Tôm giống:

· Chọn mua những đàn tôm giống khoẻ, không mang mầm bệnh. Ngoài chỉ tiêu cảm quan như: Tôm cùng cỡ, màu tươi sáng, phản ứng nhanh nhẹn. Cần tiến hành kiểm tra sức khoẻ đàn giống tôm bằng cách sốc Formalin tại trại giống: Nồng độ 200ppm trong 30-60 phút (có sục khí), tỷ lệ tôm chết cho phép là dưới 5%.

· Xử lý tôm giống bằng dung dịch Formalin 100ppm trong 30 phút (có sục khí) để loại những tôm yếu trước khi thả vào ao.

2. Cung cấp thức ăn tốt:

· Chất lượng thức ăn tốt

· Khẩu phần hợp lý tuỳ từng giai đoạn phát triển của tôm, cần cung cấp thêm vitamim C, thức ăn bổ sung.

3. Môi trường:

· Cải tạo ao tốt trước khi sử dụng

· Áp dụng kỹ thuật nuôi tôm thay nước có kiểm soát (Chỉ thay nước khi cần thiết)

· Trừ MBV có thể ẩn tồn lâu dài trong môi trường. Nói chung virus chỉ sống được 48 - 2 giờ trong môi trường nước. Virus tồn tại sống nhờ ký chủ trung gian (cua,ghẹ, tôm đất, ruốc...) Các loài thuỷ động vật mang mầm bệnh xâm nhập vào ao nuôi. Tôm ăn thịt ruốc hoặc ăn các loại vật trên sẽ bị nhiễm bệnh. Do đó:

+ Ngăn cua nghẹ ,tôm tép vào ao nuôi
+ Kiểm tra thường xuyên lấp hang , ổ rò rỉ, bắt cua ghẹ.
+ Hệ thống lọc cần có lưới lọc dày để ngăn ruốc..

· Có ao trữ nước (chiếm 30% diện tích ao nuôi ) ít nhất 7 ngày trước khi sử dụng ( đây là biện pháp quan trọng quyết định sự thành bại). Xử lý nước bằng Chlorine nhằm tiêu diệt tôm, ruốc và các loài giáp xác mang mầm bệnh.

* Khi có dịch xảy ra:

· Các chủ trại cần có sự hợp tác lâu dài về quản lý và thông tin tình hình dịch bệnh của nhau để có biện pháp phòng ngừa, tránh lây lan.

· Sát trùng nước bị nhiễm bẩn trước khi xả nước bằng cách sử dụng vôi hoặc chlorine để tránh lây lan.

· Theo dõi thường xuyên để phát hiện tôm bệnh một cách sớm nhất.

· Loại bỏ triệt để những tôm yếu chết ven bờ ao, chôn xác với vôi hoặc đốt xác.

· Không dùng dụng cụ chung các ao trong trại. Hoặc nếu dùng chung phải tẩy rửa sát trùng dụng cụ tay chân trước khi tiếp xúc với các ao khác.

II- Trị bệnh:

· Trị bệnh được áp dụng cho các bệnh vi khuẩn và ký sinh trùng, còn bệnh do virus chủ yếu là phòng bệnh mà không có thuốc trị.

· Dựa vào kết quả chẩn đoán chính xác và dựa trên cơ sở hiệu quả kinh tế để quyết định phương án điều trị thích hợp. Liều lượng thuốc phụ thuộc vào kích cỡ tôm và cách trị liệu. Có các phương pháp trị bệnh như sau:

1- Phương pháp tắm:

Dùng trị bệnh ngoại ký sinh và phòng bệnh vi khuẩn. Tuỳ kích cỡ tôm và tuổi của tôm mà có thời gian tắm thích hợp. Sau khi tắm đưa tôm vào nưước mới hoặc thay gần hết nước cũ.

2- Phương pháp ngâm:

Sử dụng phổ biến, rải thuốc khắp ao với nồng độ thấp, thời gian điều trị dài , sau đó mới thay nước mới.

Nhược điểm: Tốn nhiều thuốc.

3- Phương pháp qua thức ăn:

· Thuốc được đưa vào thức ăn để điều trị các bệnh vi khuẩn. Phương pháp này sẽ gây ra hiện tượng không đúng liều do tôm khoẻ ăn nhiều nên nhiều thuốc. Tôm yếu ,bệnh , bỏ ăn hoặc ít ăn nên dễ gây kháng thuốc, ít tác dụng với việc điều trị tôm bệnh.

· Một số thuốc dùng để điều trị bệnh do vi khuẩn, nấm và ký sinh trùng gây ra như sau:

Ðối với bệnh do vi khuẩn - Ðể điều trị có thể dùng thuốc sau:

streptomycin

2,5 ppm

Erythromycin

1-2 ppm

Oxytetracylin

0,5 ppm

Ampicilin

0,5- 1,0ppm

Kanamycine

0,1-0,25ppm

Doxycyline

0,1-1,0ppm

Chloromycetin

2-10ppm

Thay nước mới

30- 50%

Bột hạt trࠨTea seed powder) (Saponin)

10- 20 ppm

Ðiều trị bệnh nấm - Có thể áp dụng các biện pháp sau:

Thay nước

Malachite green

0,1-0,5 ppm

Parazin (Oxilinic Axit)

0,1-0,5 ppm

Furazol

1,0-2,5 ppm

Formalin

25-50 ppm

Thuốc tím

0,1-0,3 ppm

Treflan

0,1-5 ppm

Ðiều trị bệnh ngoại ký sinh do nguyên sinh động vật gây ra

Thay nước

Tăng lưượng oxy hoà tan trong ao

ổn định pH trong ao.

Trải bột hạt trà để tăng kích thích thay vỏ

10-20 ppm

CuSO4

1 ppm

Malachite green

0,5-1,0 ppm

Formalin

25 ppm

Nitrofurazone

0,5-1,0ppm

Phương pháp điều trị như thế này thường được áp dụng ở nơi ương giống, nồng độ tôm dày đặc và ít nước. Song nó không đơn giản khi mở rộng ra nuôi ở ao hồ. Bởi vậy phải có ý thức phòng bệnh là chính, ngăn ngừa trước những gì có thể xảy ra bệnh.

Mặt khác để bệnh ít xảy ra người ta đang hướng xây dựng những khu nuôi tôm sạch bệnh được bố trí và theo dõi đặc biệt.

Ðối với bệnh virus: Càng ngày càng phát hiện ra nhiều bệnh virus của tôm, điều trị nó rất khó khăn. Các chủ trang trại nuôi tôm có thể thất thu lớn do dịch bệnh của tôm. Do đó phòng bệnh cho tôm phải đặc biệt chú ý và là chủ yếu. Thế giới và trong nước đã có một số chế phẩm từ dược liệu thiên nhiên để phòng chống virus cho tôm, nhưng đang trong quá trình nghiên cứu. Chẳng hạn ở ẤN Ðộ đã nghiên cứu cây bạch tiên có tác dụng chữa bệnh virus đốm trắng. Phòng miễn dịch học Viện công nghệ sinh học Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia đang nghiên cứu chế phẩm từ các dược liệu thiên nhiên có tinh kháng virus điều trị và phòng chữa một số bệnh virus của tôm.

Pts. Trần thị minh Tâm - GS.TS. Ðái Duy Ban.

D- CÁC LOẠI THUỐC BỔ TRỢ SỰ SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÔM, CÁ

Vitamin C premix: (thuốc bột trộn thức ăn)
Công dụng:

· Tăng độ cứng của vỏ

· Kích thích sinh trưởng; chống stress; tăng sức kháng bệnh và tăng khả năng miễn dịch;

· Phòng chống các bệnh xuất huyết, nhiễm trùng, nhiễm nấm và ký sinh trùng.

Vitasol-shrimp
Công dụng
:

· Thúc đẩy quá trình lột xác, nhanh chóng cứng vỏ sau khi lột.

· Kích thích sinh trưởng, giúp tôm mau lớn

· Cung cấp đầy đủ và cân đối các loại vitamin cho tôm

· Tăng sức kháng bệnh, nhất là các bệnh nhiễm trùng ở mang và thân tôm

Bio-Lecithin:
Công dụng
:

· Kích thích tôm bắt mồi nhanh, tiêu hoá tốt;

· Bảo vệ thuốc và vitamin không bị thất thoát trong nước;

· Kháng bệnh tật, chống sốc; tăng tỷ lệ sống, tăng trọng lượng khi thu hoạch;

· Không gây ô nhiễm nguồn nước; bao bọc thức ăn tốt.

Bio squid-liver oil: (Dầu gan cá mực)
Công dụng:

· Cung cấp cholesterol, các loại axit béo, chất dinh dưỡng;

· Giúp tôm mau lớn; mau lột xác; giảm hệ số chuyển đổi thức ăn; nâng cao sức kháng bệnh, ngăn ngừa stress; kích thích tôm ăn nhiều, bắt mồi nhanh; bao bọc viên thức ăn;

· Tăng hiệu quả sử dụng các loại thuốc trộn kèm với thức ăn; đạt năng suất cao khi thu hoạch.

Bio-fac:
Công dụng
:

· Là dạng thuốc bổ đặc biệt chứa nhiều loại Axit amin, vitamin và các chất khoáng.

· Kích thích sinh trưởng, rút ngắn thời gian nuôi

· Nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn

· Nâng cao tỉ lệ sống, nhanh chóng phục hồi vết thương, giúp tôm khỏe mạnh, chống stress.

· Tăng số lượng và tỷ lệ nở của trứng, kích thích sinh sản ở tôm bố mẹ.

· RÚT NGẮN THỜI GIAN GIỮA CÁC LẦN ÐẺ.

Vitamin C 10%: (Thuốc bột hoà tan hoặc trộn thức ăn)
Công dụng:

· Kích thích sinh trưởng;

· Chống stress khi nhiệt độ, độ mặn, độ pH thay đổi ; tăng sức kháng bệnh, phòng chống các bệnh xuất huyết, nhiễm trùng, nhiễm nấm; giúp TÔM MAU HỒI PHỤC LÚC MẮC BỆNH.


Thuốc bọc viên học - 01: (Thuốc bột hoà tan hoặc trộn thức ăn)
Công dụng:

· Dùng HQC để bọc thức ăn, bọc Vitamin, thuốc trị bệnh, đạm bổ sung để tránh sự hoà tan của các chất đó khi thả xuống cho tôm ăn

· Tránh ảnh hưởng của độ pH, độ mặn lên thuốc sử dụng

· HQC có chất làm tăng mùi thơm, làm tăng sự thèm ăn của tôm, đồng thời khử vị đắng của các loại thuốc

· HQC còn là nguồn năng lượng kích thích sự tăng trưởng của tôm.

Siêu đạm - 01: (Thuốc bột hoà tan hoặc trộn thức ăn)
Công dụng:

· Cân bằng axit amin

· Tăng sức đề kháng bệnh

· Tăng cường lột vỏ và lớn nhanh

· Giúp tôm giải độc khi bị ngộ độc.

Ultravital – 01: (Thuốc bột hoà tan hoặc trộn thức ăn)
Công dụng:

· Duy trì dinh dưỡng cho gia súc, gia cầm, tôm, cá, đặc biệt trong giai đoạn mắc bệnh hoặc trị bệnh stress.

· Tăng cường sức đề kháng cho vật nuôi

Nguồn: American Technologies Inc

Ươm & nuôi tôm thương phẩm

ƯƠM & NUÔI TÔM THƯƠNG PHẨM

I. Ươm từ tôm bột thành tôm giống:

1- Xây dựng cải tạo ao:

Vị trí ao phải có nguồn nước ngọt quanh năm, nguồn nước không bị ô nhiễm, pH 6- 8.

a- Xây dựng ao:

Ao ươm có hình chữ nhật, diện tích ao 500-1000m2, dễ chăm sóc và quản lý, ao có cống cấp và thoát nước, độ dốc thoải về cống thoát, độ sâu của ao 1.2 m, hệ số mái thoải khoảng 1:2, đáy ao bằng phẳng dễ thu hoạch.

b- Cải tạo ao:

Ao ươm trước lúc nuôi cải tạo kỹ càng, ao cũ tháo cạn, vét bỏ bớt bùn, chỉ chừa lại 15 cm là vừa. Sau đó bón vôi ao, nếu bón vôi từ 2-3 T/ha là quá cao mà phải tuỳ vào chất đất để dùng vôi cho phù hợp. Bón xong giữ cho ao đủ độ ẩm, không để nước vào quá nhiều. Sau 3 ngày bón phân hữu cơ, trước khi dùng phải diệt vi khuẩn và vi sinh, dùng với liều lượng vừa phải, nếu dùng quá nhiều tảo sẽ phát triển quá mức. Sau đó lọc trong nước vào sau 10-15 ngày là thả nuôi. Trường hợp ao không xả hết nước, hay trong ao có cá tạp, cá dữ dùng thuốc diệt cá như rễ cây deris, saponin liều dùng khoảng 1 Kg/100m3, diệt tạp trưước 2 ngày rồi mới thả tôm.

2- Vận chuyển thả giống và mật độ ươm:

a- Vận chuyển giống:

Tôm PL được đóng trong túi ni lon (60*90cm) 1/3 nước, 2/3 0xy, mỗi túi đóng 6000-8000 PL, thời gian vận chuyển 10-12 giờ. Khi tới ao nuôi thời gian thả tốt nhất là 5-9 giờ và 16-18 giờ. Các bao được bỏ xuống ao, để nhiệt độ trong ao và môi trường cân bằng nhau (khoảng 20-30 phút) rồi mới thả, thả cánh bờ 2-3m tránh PL nhảy dính vào bờ.

b- Mật độ ươm:

Tuỳ thuộc vào thời gian ươm và kỹ thuật chăm sóc quản lý, thường ươm từ 2-3 tháng. theo chúng tôi nghĩ chăm sóc tốt, ươm 1,5 tháng là vừa. Thời gian này tôm dễ vận chuyển, ít hao bắt mồi. Trong các ao để các sàng chứa thức ăn, kiểm tra lượng thức ăn thừa hay thiếu, nếu thiếu hôm sau bổ xung thêm, nếu thừa hôm sau giảm bớt.

c- Thức ăn và cho ăn:

Thức ăn cho ăn có thể dùng thức ăn viên, hay cá hấp, chủ yếu là bảo đảm hàm lượng Protein, chất lượng thức ăn như sau:

· Protein 30 - 35%

· Lipid 5 - 8%

· Canxi 2 - 3%

· Phospho 3 - 6%

· Cellulose 3 - 5%

Lượng thức ăn được tính theo % trọng lượng cá thể theo bảng 3:

Bảng 3

Thời gian nuôi (ngày)

Trọng lượng cá thể (g)

Thức ăn khô (%)

Thức ăn tươi
(%)

Ghi chú

0-27
28-60

0,051-0,5
0,5-1,0

40
20

200
100

T/lượng cá thể tính trung bình

Ngày cho ăn 3-4 lần, thức ăn được rải đều ao, để tôm dễ bắt mồi.

4- Chăm sóc và quản lý ao ươm:

Ao ươm duy trì mức nước 0,8-1,0m, nếu vùng có cá dữ phải dùng các biện pháp ngăn chặn không cho vào ao. Theo dõi tôm ăn đủ hay thiếu, điều chỉnh kịp thời, 10-15 ngày đầu không thay nước. Sau đó thay nước hàng ngày 20-30% lượng nước trong ao, cắm thêm chà làm giá để cho tôm bám và tạo chỗ trú ẩn lúc tôm lột xác.

5- Thời gian ươm và thu hoạch:

Thời gian ươm, tuỳ thuộc vào điều kiện và vị trí nuôi tôm thịt, nếu vùng nuôi cạnh ao ươm có thể ươm kéo dài 2-3 tháng, vùng nuôi xa ao ươm, nên ươm từ 45-60 ngày dễ vận chuyển ít hao hụt.

Trước lúc thu hoạch phải chuẩn bị bể chứa có sục khí, hay các giai cắm xuống ao bên cạnh ao chứa tôm. Thu hoạch vào ban đêm hay sáng sớm, bằng cách tháo ao có lưới thu hoạch, không nên để nước chảy mạnh qúa, thời gian trút lưới 15-20 phút 1 lần, để lâu quá tôm yếu.

II. Nuôi tôm thương phẩm trong ao và ruộng lúa:

1.Chọn vị trí xây dựng ao và ruộng:

a. Ao nuôi:

Vị trí xây ao dựng ao nuôi, phải xây dựng ao cao hơn con nước cao nhất trong năm ít nhất là 1m. Các chỉ tiêu thuỷ hoá chủ yếu của nguồn nước là:

pH

6-6,8

Ðộ cứng tông cộng

>20mg/l

Ca

5mg/l

Oxy

> 3mg/l

Fe

Tổng cộng 0.2mg/l

Nếu gần nguồn điện, thuận tiện giao thông càng tốt.

b. Ruộng lúa:

· Diện tích nuôi trong ruộng lúa, vừa quản lý cho một hộ nuôi khoảng 1-1.5 ha. Có bờ ao chắc chắn không bị rò rỉ, nếu vùng có thuỷ triều, phải xây dựng cao hơn con nước cao nhất trong năm 0.5 m.

· Xung quanh ruộng đào mương rộng từ 3-5m, sâu 1m, mương phải bằng phẳng dốc về hướng cống thoát, đào thêm các mương phụ rộng từ 1-2m sâu 0.8m nối liền với mương chính, diện tích đào mương chiếm 15-20% tổng diện tích ruộng.

· Cống: Tuỳ theo diện tích rộng hay hẹp xây cống nhiều hay ít, ruộng diện tích hẹp làm một cống cấp nước và 1 cống thoát, ruộng từ 1ha trở lên làm 2 cống cấp và 1 cống thoát.

· Xây dựng hệ thống cấp và thoát nước đều phải tính toán giữ được ổn định mực nước trên ruộng khoảng 20cm, cống thoát nước phải tháo cạn nước khhi cần thiết. Khẩu độ cống 0.5-0.7m có lưới bảo vệ chống cá dữ và tôm ra ngoài.

2- Cải tạo và ruộng:

a- Cải tạo ao:

Ao được cải tạo bằng cách bón vôi và phân chuồng, diệt tạp như ao ươm. Sau đó lọc nước vào, sau 10-15 ngày mới thả nuôi. Khi kiểm tra chất lượng nước ao có các chỉ số sau trước khi thả là tốt.

Oxy

4-7 mg/l

pH

7-8

Ðộ trong

20cm

Tảo (phytoplankton)

300.000-800.000th/l

Ðộ cứng tổng cộng

50mg/l

Nếu ao có nhiều bọ gạo nên diệt bọ gạo trước lúc thả tôm.
Mực nước trong ao nên duy trì từ 1-1.5m.

b- Ruộng nuôi tôm:

Ruộng nuôi tôm, trước lúc thả ra ta phải cải tạo ao giống như ở phần trên, nước lọc kỹ lưỡng, trường hợp khó cải tạo tháo cạn, ta dùng thuốc diệt cá dữ, cá tạp ở mương, diệt tạp nuôi mới hiệu quả.

3- Cách vận chuyển giống và mật độ thả:

a- Cách vận chuyển:

· Hiện nay bà con nông dân quen nuôi tôm có kích thước từ 3-4 cm trở lên, chưa quen nuôi giống nhỏ, cho nên việc vận chuyển giống lớn phải đảm bảo kỹ thuật mới cho tỷ lệ sống cao.

· Khi vận chuyển giống ở ao ươm đi xa vùng nuôi, phải thu hoạch trước 1-2 ngày, rộng tôm vào giai hay bể, để tôm khoẻ rồi mới vận chuyển.

· Sau đó dùng bao nylon (60*90) có bao bảo vệ, 1/3 nước và 2/3 0xy, đóng 1000-2000 con/bao, loại 3-4 cm (0.5-1g/con) nhiệt độ của nước trong bao: 240oc. Thời gian vận chuyển 8-10 giờ. Thời gian thả như phần ươm tôm.

b- Mật độ thả:

· Ðối với ao nuôi mật độ từ 4-6 con /m2

· Đối với ruộng lúa mật độ 6 con / m2

4- Thức ăn, khẩu phần ăn và cách cho ăn:

Thức ăn cho tôm bảo đảm đủ dinh dưỡng và khoáng để tôm phát triển tốt, lột xác dễ dàng. Có thể dùng thức ăn viên, cá vụn, con ruốc hay tép...Nhưưng phải bảo đảm các thành phần hoá học sau:

· Protein 30-35%

· Lipid 3-5%

· Canxi 2-3%

· Phospho 1-1.5%

· Cellulose 3-5%

Khẩu phần ăn tính theo% trọng lượng thân, hay từng khoảng thời gian một thay đổi hệ số 1 lần. Trong ruộng lúa chỉ cần cho ăn bằng 1/2 lượng thức ăn trong ao. Vì tôm có thể ăn thức ăn tự nhiên trong ruộng lúa. Có thể dựa vào bảng 4 để tính lượng thức ăn hàng ngày.

Nếu dùng thức ăn tươi sống tăng lên 4-5 lần.

Cho ăn ngày 2 lần vào lúc 6h và 18h. Thức ăn được rải đều khắp ao để tôm dễ bắt mồi. Trong các ao các sàng chứa thức ăn, kiểm tra lượng thức ăn thừa hay thiếu, nếu sau 1 giờ tôm ăn hết là vừa, nếu thiếu hôm sau bổ sung thêm, nếu thừa giảm xuống.

Bảng 4

Thời gian nuôi (ngày)

Trọng lượng cá thể trung bình(g)

Tỷ lệ sống

Thức ăn % trọng lượng thân

Ao

Ruộng

1-20

1

100

20

10

21-40

7

95

15

7

41-60

13

90

10

5

61-80

22

85

8

4

81-100

31

70

5

2.5

101-120

40

71

4

2

121-150

50

60

3

1.5

ở ruộng ta phải rải đều ra các mương xung quanh ruộng

5- Chăm sóc và quản lý:

Ðây là khâu quan trọng quyết định cho sự thành bại. Do đó phải quản lý môi trường ao nuôi thật chặt chẽ. Trong quá trình nuôi tôm thịt, nghệ thuật quản lý ao nuôi hơn là chính xác

khoa học, vì thế kết quả thu được ảnh hưởng bởi khả năng của người chăm sóc và việc giải quyết kỹ thuật với các yếu tố xảy ra trong quá trình nuôi.

a.Thay nước :

· Mực nước trong ao ổn định 1-1,2 m

· Trong đó ao nuôi phải thay thường xyên nước (tháng đầu có thể không thay) tháng thứ 2 trở đi phải được thay nước thường xuyên 10-20% lượng nước trong ao. Lượng nước thay là nước đáy ao, thường nghèo dinh dưỡng, dễ gây bệnh do thừa thức ăn để lại ). Khi thay nước tức là đã pha loãng nồng độ độc tố có trong ao như NH3, NO2, H2S, vv...

· Loại bỏ các chất keo tụ ở đáy ao, làm mất đi các giá thể, vi sinh bám vào và tăng thêm nồng độ OXY cho ao.

· Ðối với ruộng , do nuôi mật độ thưa khoảng 1 con/m2 cho nên thay nước không quan trọng, tuỳ theo thực tế ta có thể thay nước 2-3 lần /tháng.

b. Bón phân:

· Trong ao nuôi nghèo dinh dưỡng, tảo ít phát triển (nước trong) ta cần bón thêm phân N.P.K 5 Kg/ha/tháng. Vùng nước có độ cứng thấp, dưới 50 mg/l nên bón thêm bột đá vôi CaC03 hay bột vỏ sò 200 Kg/ha, 2 tháng 1 lần, tăng độ cứng trong nước giúp tôm dễ dàng tạo vỏ mới, để lột xác.

· Trong ruộng không cần bón thêm phân.

c. Theo dõi độ pH:

Trong ao nuôi pH luôn thay đổi, pH cao trong ao có hàm lượng NH+ cao rất độc cho tôm.

· Nếu pH = 7 NH4+ là 90%

· NH3+ là 10%

· Nếu pH = 9,5 NH4+ là 20%

· NH3+ là 80%

· NH3+ rất độc cho tôm nuôi, trong ao nuôi NH3+ không được cao quá 0,2 mg/l, ao có tảo phát triển quá nhiều, khi tảo chết sẽ độc cho tôm. Do đó khi pH cao hơn 8,5 phải thay nưước nhiều, pH cho phép từ 7,5 - 8,5, không được cao quá hay thấp quá.

d. Oxy:

Oxy là dưỡng khí bảo tồn sự sống cho tôm. Trong không khí, oxy chiếm 20-25% nhưng nó hoà tan trong nước không nhiều, do đó khu vực nuôi tôm phải thoáng gió, ao không sâu quá tránh hiện tượng phân tầng, thường xuyên kiểm tra oxy để dự đoán trước các trường hợp thiếu oxy, trong ngày thường vào 1-5 giờ oxy luôn thấp, oxy tốt nhất là 5-7 mg/l, nếu oxy 3mg/l tôm sẽ nổi quanh bờ, 2 mg/l tôm sẽ chết.

e. Một số trường hợp khi nuôi tôm ở ruộng:

Trong ruộng lúa ta sử dụng cấy loại lúa chống chịụ được bệnh để giảm bớt việc sử dụng thuốc trừ sâu. Khi sử dụng thuốc trừ sâu, tháo cạn nước cho tôm xuống các mưương mới xịt thuốc, khi thuốc hết tác dụng mới dâng nước lên tránh gây độc cho tôm.

f. Phòng trừ dịch hại:

Vùng nhiều địch hại như cá dữ, chim phải tìm cách chống xâm nhập vào ao, nhưư làm rào chắn, đào mương hay diệt chết theo sự rò rỉ của bờ ao, cống, tôm dễ theo nguồn nước ra ngoài. Trong ao và mương ở ruộng thả trà bảo vệ và làm chỗ trú ẩn cho tôm lúc lột xác.

· Chloramphenicol : 1,0 g/Kg thức ăn

· Furazon 0,25 g/Kg thức ăn

· Oxy tetracylin 1,8 g/Kg thức ăn

6- Phòng bệnh và kiểm tra bệnh lý:

Trong ao nuôi tôm cũng như các loài thuỷ sản khác, biện pháp phòng bệnh là hữu hiệu nhất, còn chữa bệnh ít hiệu quả.

a- Phòng bệnh:

· Cải tạo ao và ruộng tốt.

· Chất lượng con giống tốt.

· Quản lý môi trường ao nuôi tốt, không để các hiện tượng sốc xảy ra, nhưư pH cao, Oxy thấp.

· Thức ăn cho ăn đầy đủ, đảm bảo chất lượng.

· Trộn thuốc vào thức ăn, 10 ngày cho ăn 1 lần, dưới dạng thức ăn viên.

b- Một số bệnh thường gặp:

· Ðóng rong: Trong ao có nhiều con tôm bị đóng rong, chiếm trên 10% lượng tôm ở trong ao, đây là do hiện tượng thiếu dinh dưỡng , tôm không lột xác được, lúc này ta phải bổ xung ngay thức ăn đủ dinh dưỡng, tôm sẽ lột xác bình thường.

· Mềm vỏ: Tôm lột xác xong 1-2 giờ la lớp vỏ ngoài cứng, nhưng trong ao thấy tôm lột vỏ mềm vỏ lâu, có số lượng mềm vỏ nhiều. Ðây là hiện tượng nguồn nước có độ cứng thấp, thức ăn thiếu Ca và Phospho không đủ để tôm tạo vỏ tốt.

· Bệnh phồng mang: Ðây là dạng ký sinh bám vào các tấm mang do nguồn nước trong ao bẩn ít thay nước.

· Bệnh ký sinh: Protozoa ở vùng nước nhiễm bẩn, ao ít thay nước tôm dễ bị nhiễm bệnh này, trên cơ thể tôm mọc thành đám như sợi bông. Ðó là bọn Zoothamnium epistylis, nếu lượng ký sinh nhiều, tôm không lột vỏ được và bị chết.

7- Thời gian nuôi :

Tôm thường nuôi từ 5-6 tháng là thu hoạch, ta có thể đánh tỉa và có thể kéo dài 6-8 tháng, trọng lượng tôm nuôi có thể đạt trung bình tôm đực: 65g/con, tôm cái: 35g/con

8- Năng suất :

· Năng suất nuôi tốt nhất trong ao có thể đạt 800-1.200 hụt, mật độ ươm 150-200 PL/m2. /vụ Kg/ha.trong ruộng lúa đạt 150 - 200 Kg/vụ/ha.

· Việc nuôi tôm càng xanh bán thâm canh và nuôi quảng canh cải tiến trên ruộng lúa, đang phát triển tốt ở nước ta, đạt hiệu quả kinh tế. Khi người nuôi tôm nắm bắt được các kỹ thuật nuôi cơ bản, nuôi sẽ thành công.

Trích giáo trình kỹ thuật nuôi tôm của tác giả K.s Phạm văn Tình - Nhà xuất bản Nông nghiệp – 1994

Nguồn: American Technologies Inc